Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Gia Đình chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Quận Tân Bình giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình Cung Cấp:
Gas Gia Đình Xám 12kg |
Gas Gia Đình Vàng 12kg |
Gas Gia Đình Đỏ 12kg |
Gas Gia Đình Xanh VT 12kg |
Gas Gia Đình Xanh Shell 12kg |
Gas Gia Đình Xanh Petro 12kg |
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình, giá bán các loại gas Gia Đình dân dụng, gas Gia Đình công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 15 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15. Khách hàng thuộc khu vực Quận Tân Bình có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Xin Giới Thiệu VềPhan Thúc Duyện
Phan Thúc Duyện (1873-1944), hiệu Phong Thử, tự My Sanh, Nam Phong, là một chí sĩ yêu nước trong Phong trào Duy Tân tại Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Thân thế
Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Quý Dậu (tức 8 tháng 3 năm 1873), tại làng Phong Thử, tổng Đa Hòa, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn), tỉnh Quảng Nam. Nguyên gốc thủy tổ là người Hoan Châu, giữa thế kỷ XVI vào Quảng Nam để khai hoang lập nghiệp, trải qua hơn 300 năm thì đến đời của ông.
Nguyên tên ông là Phan Văn Thiện, sau đổi ra Phan Thúc Duyện, hiệu Mi Sanh. Các đồng chí của ông thường gọi Phan Diện, nhân dân thì gọi cử Diện hoặc cử Phong Thử. Trong danh sách thi đỗ cử nhân ghi Phan Thúc Diễn. Sách Quốc triều Hương Khoa lục của Cao Xuân Dục chép tên ông phiên âm ra thành Phan Sung và quê ông là Phong Thiện. Theo nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc thì đây là sự nhầm lẫn bởi Diện hay Diễn là do phát âm sai chữ Duyện, cũng như chữ Duyện và chữ Sung cũng như chữ Thử và chữ Thiệm có tự dạng gần giống nhau nên dễ lầm.
Song thân ông là ông Phan Trọng Đạt và bà Phan Thị Thuận, đều trong gia đình nông dân. Mặc dù vậy, ông vẫn được ăn học tử tế.
Sự nghiệp Duy Tân
Ông đỗ Cử nhân khoa thi năm Canh Tý (1900)) tại trường Thừa Thiên, xếp hạng thứ 6 trong tổng số 42 người sau Huỳnh Thúc Kháng (thủ khoa), Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Lê Bá Trinh và Phan Thúc Vĩnh. Tuy nhiên, sau khi thi đỗ, ông không ra làm quan mà tích cực tham gia phong trào Duy Tân ngay tại quê nhà cùng với Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh,… Các ông cổ súy thực hành cải cách xã hội, “khai dân trí, chấn dân khí”, lập ra các thương hội, nông hội, tài thực hội (hội trồng cây) nhằm phát triển kinh tế theo một hướng cải cách mới.
Năm 1906, ông cùng Lê Bá Trinh, Hồ Thanh Vân… đi khảo sát đất nhàn điền ở miền tây Quế Sơn, Đại Lộc và tổ chức khai hoang, lập đồn điền trồng cây công nghiệp. Ông là người sáng lập và điều hành Hội thương Phong Thử – một dạng hợp tác xã mua bán ngày nay – hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có quy mô hoạt động khá rộng, chỉ xếp sau Hội thương Hội An.
Sau cuộc biểu tình kháng thuế, đòi giảm sưu của nhân dân Quảng Nam (1908), chính quyền thực dân Pháp đã bắt giam nhiều chí sĩ liên quan đến phong trào Duy Tân như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Lê Bá Trinh, Nguyễn Thành, Phan Thúc Duyện… và chiếu theo luật “mưu làm giặc mà chưa làm” để xử các ông tội lưu đày Côn Đảo, “gặp ân xá không tha”. Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang và Lê Hữu Phước sưu tầm trong “danh sách tù nhân quê quán ở Trung Kỳ” do viên quản đốc nhà tù Côn Đảo lập ngày 1 tháng 10 năm 1912 có chép:
Phan Thúc Duyện: 41 tuổi, ở Phong Thử, tỉnh Quảng Nam. xử tại: tòa án Nam Triều. Ngày xử 9/6/1908, y án ngày 16/8/1908. Tội danh: cầm đầu bạo loạn trong tỉnh Quảng Nam. Chịu án: xử tù và đày ra Côn Đảo.
Tài liệu sưu tầm từ bản trích lục sổ phóng thích (Extraits des registres d’ écrou) được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ tài liệu hải ngoại của Pháp ở Aix – en – Provence (A.O.M Aix – en – Provence) được Phủ Phụ chính triều Duy Tân xét duyệt ngày 19 tháng 8 năm 1908 của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc cũng ghi:
Phan Thúc Duyện, 41 tuổi, cựu cử nhân, quán làng Phong Thử, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn tỉnh Quảng Nam bị bắt ngày 7.4.1908 vì lãnh đạo cuộc khuấy động ở Quảng Nam. Bản án do tòa án Quảng Nam kết án ngày 9.6.1908 và Phủ Phụ chính (triều Duy Tân) xét duyệt ngày 16.8.1908, đày Côn Lôn, được giảm án còn 13 năm khổ sai do quyết định của Phủ toàn quyền Đông Dương ngày 1.12.1913. Ngày mãn hạn tù là 7.4.1921. Nhận xét: Trợ thủ chính của Phan Châu Trinh. Cần giám sát nghiêm ngặt.
Tại Côn Đảo, dưới thời chúa đảoJoseph O’ Connell, các tù chính trị được ra ngoài làm ăn. Huỳnh Thúc Kháng kể lại:
“Tôi cùng My Sanh [Phan Thúc Duyện], Tập Xuyên, Thái Sơn, Phong Niên làm chủ hai tiệm buôn Sài Gòn Giao Hiệp mua hàng… Tiệm tôi lúc đầu chỉ có 4 anh em, sau có Thông Thiệp (Bắc Hà) hùn vào, đây là. Hiệu tiệm chúng tôi gọi là “Quảng Hồng Hưng”…
Có một chuyện thú vị là ông Hải Châu (Lê Bá Trinh) có chung vốn vào tiệm buôn mà không ở tiệm, chỉ chuyên nghề đồi mồi”.
Mãi đến năm 1919, nhân người con trai của ông là Phan Mính, từng gia chiến trong Thế chiến thứ nhất, tốt nghiệp kỹ sư ở Pháp về làm việc ở Sài Gòn, đã làm đơn xin chính quyền thuộc địa ân xá cho ông và ông được trả tự do.
Khi về đến Huế, ông bị triều đình Nhà Nguyễn và thực dân Pháp cưỡng bức lưu trú tại Quảng Bình. Thời gian 10 năm bị cưỡng bức lưu trú tại Quảng Bình, ông có góp nhiều công lao trong công cuộc khai phá, canh tác, phát triển kinh tế ở một vùng đất đồi núi phía Tây Quảng Bình.
Năm 1930, ông được về lại quê hương, tiếp tục thực hiện những mục tiêu của phong trào Duy Tân. Ông vào Phan Thiết lập “Nhân điền” (1932-1935), làm đường sắt và ga Phú Cang (1935-1937). Trở về lại quê hương Phong Thử, ông huy động xây dựng sân vận động Phong Thử (1937-1939), làm chợ Phong Thử, trường học Phong Thử (1939-1942)… biến Phong Thử thành một thị trấn nhỏ, trù phú, thịnh vượng ở vùng quê Quảng Nam.
Ông mất ngày 18 tháng 9 năm Giáp Thân (tức 3 tháng 11 năm 1944) tại quê nhà, hưởng thọ 72 tuổi.
Đời tư
Ông có 3 đời vợ, bà Chánh thất là Trương Thị Hướng mất lúc mới 23 tuổi. Ông tục huyền với bà Nguyễn Thị Luyến, bà mất năm 1911 lúc ông còn ở tù Côn Đảo. Thời gian ở Côn Đảo,do ngoại hình to lớn, vạm vỡ, sức mạnh hơn người, ông thường gánh vác dùm phần việc vác đá, vác bao lúa khi thì cho ông Huỳnh Thúc Kháng, khi thì cho ông Lê Bá Trinh. Do mối thâm tình đó, nên ông Lê Bá Trinh có hứa nếu có hai còn sống về được quê nhà sẽ gái em gái cho ông. Người em gái đó chính là bà Lê Thị Bằng, người vợ thứ ba, cưới năm 1921 sau khi ông từ Côn Đảo trở về.
Con trai trưởng của ông là kỹ sư Phan Mính, từng tham gia chiến đấu trong Thế chiến thứ nhất, sau khi về nước đã làm đơn khiếu nại đòi trả tự do cho cha. Tuy nhiên, chỉ 1 năm sau khi cha qua đời, ông Phan Mính cùng với người anh em cột chèo là nhà báo Diệp Văn Kỳ bị một người bên vợ là Nguyễn Chín (út) giết chết ở Củ Chi trong năm 1945 để đoạt của chứ không phải bị giết vì lý do chính trị.
Ông có có một người con trai thứ tên là Phan Trọng Thỉnh, người được ông giao lại quản lý sự nghiệp tại Quảng Bình, gần tương ứng với khu vực Thị trấn Nông trường Lệ Ninh ngày nay.
Vinh danh
Tại Quảng Nam: Tên ông được đặt tên cho Trung học cơ sở Phan Thúc Duyện ở xã Điện Thọ, Điện Bàn và một con đường ở thị trấn Vĩnh Điện.
Tại TP.HCM:Tên ông được đặt cho con đường chạy qua công viên Hoàng Văn Thụ, Quận Tân Bình. Khu lăng mộ của Phan Chu Trinh, một đồng chí của ông cũng nằm trên đường này.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận Tân Bình
♦ Đặc điểm địa lý tự nhiên
Ngày 30 tháng 04 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng , thống nhất Tổ quốc; Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định được mang tên thành phố Hồ Chí Minh, quận Tân Bình là quận ven nội thành với số dân là 280.642 người (đầu năm 1976); diện tích 30,32 km2 trong đó sân bay Tân Sơn Nhất 13,98 km2 được chia thành 26 đơn vị hành chính cấp phường.
+ Địa hình quận nằm về hướng Tây Bắc nội thành :
Đông giáp quận Phú Nhuận, quận 3, quận 10.
Bắc giáp quận 12, quận Gò Vấp.
Tây giáp Bình Chánh.
Nam giáp quận 6, Quận 11.
+ Tọa độ địa lý:
Điểm cực Bắc : 100 49’ 90” độ vĩ Bắc ;
Điểm cực Nam: 100 45’ 25” độ vĩ Bắc;
Điểm cực Đông : 100 40’26’ độ kinh Đông;
Điểm cực Tây : 100 36’47” độ kinh Đông.
Quận Tân Bình có 2 cửa ngõ giao thông quan trọng của cả nước; Cụm cảng hàng không sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất (diện tích 7,44 km2) và quốc lộ 22 về hướng Tây Ninh, Campuchia. Quận Tân Bình có địa lý bằng phẳng, độ cao trung bình là 4-5 m, cao nhất là khu sân bay khoảng 8-9 m, trên địa bàn cón có kênh rạch và còn đất nông nghiệp.
Đến năm 1988 theo Quyết định số 136/HĐBT ngày 27/08/1988 của Hội đồng Bộ trưởng. Quận Tân Bình được điều chỉnh địa giới hành chính từ 26 phường sáp nhập lại còn 20 phường (từ phường 1 đến phường 20), cho đến 30/11/2003,thời gian được 15 năm.
Đến cuối năm 2003,thực hiện Nghị định 130/2003/ NĐ – CP ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, quận Tân Bình được điều chỉnh địa giới, tách ra thành lập quận Tân Phú. Hai quận Tân Bình và Tân Phú.
♦ Quận Tân Bình (Mới):
+ Diện tích 22,38 km2 , trong đó sân bay Tân Sơn Nhất 8,44 km2.
Đông giáp quận Phú Nhuận, Q3, Q10.
Bắc giáp quận 12, quận Gò Vấp.
Tây giáp quận Tân Phú.
Nam giáp quận 11.
+ Dân số quận còn trên 430.559 ngàn người, (bao gồm cả nhân khẩu có Đăng ký thường trú, nhưng đi nơi khác ở) 75.206 hộ.
+ Có 15 phường trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, mang số: từ phường 1 đến phường 15 (riêng phường 14 và 15 phải điều chỉnh địa giới hành chính ở 2 quận).
Về đặc điểm dân cư
Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên và cơ cấu kinh tế của quận Tân Bình,do tốc độ đô thị hóa, sự biến động dân số tác động khá lớn đến việc phát triển kinh tế xã hội. Có thể nói đất Tân Bình là “ Đất lành, chim đậu”, nên đến năm 2003 đã được Chính phủ điều chỉnh địa giới và tách thành một quận mới; thể hiện qua dãy số biến động của các năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm (dân số trung bình năm) như sau:
Năm 1976 là 280.642 người
Năm 1980 là 250.472 người, giảm 11% so năm 1976 (thời kỳ này do vận động giãn dân, đi xây dựng vùng kinh tế mới).
Năm 1985 là 287.978 người, tăng 14,9% so năm 1980.
Năm 1990 là 357.202 người, tăng 24,3% so năm 1985.
Năm 1995 là 464.165 người, tăng 29,9% so năm 1990.
Năm 1999 là 612.252 người, tăng 31,9% so năm 1995.
Năm 2000 là 646.407 người, tăng 39,2% so năm 1995.
Năm 2003 là 754.160 người, tăng 11,6% so năm 1995.
Khi tách quận:
Tân Bình có số dân là : 430.160.
Tân Phú có số dân là : 324.000.
+ Cuối năm 2004 dân số thực tế cư trú là 404.239 người.
+ Đến tháng 6 năm 2005, ước tính dân số thực tế cư trú là 411.000 người.
So sánh 28 năm, chưa tách quận (1975/2003) tăng 2,7 lần;
So sánh 30 năm khi đã tách quận Tân Bình (1975/2005) tăng 1,5 lần.
Qua 3 cuộc tổng điều tra dân số, tỷ trọng dân số quận Tân Bình so với thành phố: năm 1979: 7,72 %; năm 1989: 8,5% và năm 1999: 11,49%. Năm 2004 thành phố tổ chức điều tra dân số, quận Tân Bình mới chiếm tỷ lệ 6,6% thành phố.
Mức tăng dân số tự nhiên, do trình độ dân trí và đời sống ngày càng cao, cộng với những năm gần đây công tác tuyên truyền vận động thực hiện “ Kế hoạch hóa gia đình”, nên qua các năm luôn giảm dần:
Từ năm 1976 – 1980 bình quân năm 1,68%.
Từ năm 1981 – 1985 bình quân năm 1,79%.
Từ năm 1986 – 1990 bình quân năm 1,55%.
Từ năm 1991 – 1995 bình quân năm 1,53%.
Từ năm 1996 – 2000 bình quân năm 1,38%.
Từ năm 2001 – 2005 bình quân năm 1,18%.
Về dân tộc : dân tộc Kinh chiếm 93,33%; Hoa 6,38%; Khơme 0,11%; các dân tộc khác là Tày 0,05%, Thái 0,01%, Nùng 0,03%, Mường 0,02%, Chăm 0,02% và người nước ngoài . . . Phường có nhiều người Hoa là phường 9, 10.
Về tôn giáo: Phật giáo chiếm 19,62%, Công giáo 22,9%, Tin lành 0,37%, Cao đài 0,4 %, Hoa hảo 0,01; Hồi giáo 0,02%, không có đạo chiếm 56,68% (số liệu tổng điều tra dân số 1999). Toàn quận có 140 cơ sở tôn giáo trong đó, Phật giáo 74, Công giáo 60, Tin lành 4, Cao đài 2.
Về đặc điểm cơ cấu kinh tế
Giai đoạn từ ngày 30/4/1975 giải phóng Miền Nam đến năm 1985 trong nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa, thì cơ cấu kinh tế Tân Bình là sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp.
Giai đoạn 1985 – 1990 nhà nước bắt đầu đổi mới, thì Tân Bình xác định cơ cấu kinh tế là công nghiệp, TTCN, thương nghiệp và nông nghiệp.
Giai đoạn 1991 cho đến năm 2003 chưa tách quận, cơ cấu kinh tế là công nghiệp, TTCN – Thuơng mại, dịch vụ. Giai đoạn này là giai đoạn phát triển mạnh nhất, nhanh nhất kể cả về kinh tế, xây dựng phát triển đô thị hóa và biến động tăng dần số cơ học. Là quận có giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất thành phố, chiếm tỷ trọng từ 15% đến 19% và có mức tăng bình quân hàng năm trên 15%. Doanh thu thương mại dịch vụ mức tăng là 18 % năm.
Năm 2004 sau khi tách quận, hiện trạng phần lớn cơ sở hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ nằm trên địa bàn Tân Bình, nên cơ cấu kinh tế quận Tân Bình đã xác định chuyển đổi là : Thương mại, dịch vụ – Sản xuất công nghiệp, TTCN. Với trên 3.700 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và trên 23.700 cơ sở hộ cá thể hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ cấu ngành nghề: Thuơng mại chiếm 40%, dịch vụ 32%, công nghiệp 18% và hoạt động khác 10%.
Quận Tân Bình rất thuận lợi về địa lý kinh tế, về giao thông đường bộ đường hàng không, về du lịch và các hoạt động thương mại dịch vụ, lại có lực lượng sản xuất đông. Luôn mở cửa rộng đón tiếp nhưng nhà doanh nhân, nhà du lịch lữ hành và nhà đầu tư đến hoạt động trên địa bàn quận Tân Bình; làm giàu cho dân, cho đất nước và cho mình, thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận Tân Bình
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 15 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15. Khách hàng thuộc khu vực Quận Tân Bình có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Ấp Bắc | Hiệp Nhất |
v Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Phan Thúc Duyện Quận Tân Bình
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm