Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Quận Tân Phú giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Nguyễn Trường Tộ là tên một nhân vật lịch sử
Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871), còn được gọi là Thầy Lân; là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trường Tộ
Ông sinh trong một gia đình theo Công giáo Rôma từ nhiều đời tại làng Bùi Chu[4], thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Cha là Nguyễn Quốc Thư, một thầy thuốc Đông y, nhưng mất sớm.
Những năm học tập
Thuở thiếu thời, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán với cha và các thầy ở trong vùng: Tú Giai ở Bùi Ngõa, Cống Hữu ở Kim Khê và quan huyện Địa Linh về hưu ở Tân Lộc.
Ông thông minh, học giỏi nên được truyền tụng là “Trạng Tộ”.
Sau khi thôi học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ Hán trong Nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Tại đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu, về Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846) dạy cho học tiếng Pháp và giúp cho có một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương Tây.
Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn “phân tháp” (sáp nhập hai ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công giáo, chứ không cho ở tập trung như trước).
Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng (Hồng Kông) và một số nơi khác…
Làm phiên dịch cho quân Pháp
Đầu tháng 2 năm 1861, sau khi chiến tranh ở Ý và ở Trung Quốc kết thúc, Đô đốc Léonard Charner được lệnh gom quân ở Trung Quốc đem về Sài Gòn mở rộng vùng chiếm đóng. Với quyết tâm này, Charner đã thuyết phục được một số giáo sĩ Pháp đang lánh nạn ở Hồng Kông, trong số đó có Giám mục Gauthier, về Sài Gòn cộng tác. Nhận lời, Giám mục Gauthier dẫn Nguyễn Trường Tộ cùng về với mình. Sau đó, ông Tộ nhận làm “từ dịch” (phiên dịch các tài liệu chữ Hán) cho thực dân Pháp.
Trong bài “Trần tình” (viết xong ngày 7 tháng 5 năm 1863), Nguyễn Trường Tộ phân trần rằng: lúc bắt đầu khởi hấn (đầu năm 1859, tức lúc quân Pháp chuẩn bị tấn công thành Gia Định), quân Pháp có mời ông cộng tác. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (tháng 2 năm 1861), ông thấy rằng phải tạm hòa theo đề nghị của Pháp, để dưỡng quân và củng cố lực lượng. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã nhận làm từ dịch cho Pháp để mong góp phần vào việc hòa đàm…
Ngày 29 tháng 11 năm 1861, Đô đốc Louis-Adolphe Bonard lên thay Đô đốc Léonard Charner, và ông này liền xua quân mở rộng cuộc chiến. Thấy vậy, Nguyễn Trường Tộ không trông mong gì ở cuộc “nghị hòa” nên xin thôi việc.
Hết lòng vì đất nước
Sau khi thôi việc, Nguyễn Trường Tộ đã dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Nhờ sự hiểu biết sâu rộng về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…; đến đầu tháng 5 năm 1863, thì ông đã thảo xong ba bản điều trần gửi lên Triều đình Huế là: “Tế cấp luận”, “Giáo môn luận” và “Thiên hạ phân hợp đại thế luận”.
Nhận thức được bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những nhận định:
Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ Song tất cả đều không được phúc đáp. Đầu năm 1864, ông lại gửi cho đại thần Trần Tiễn Thành một bản điều trần nữa (hiện thất lạc) để thuyết phục Triều đình Huế nên tạm hòa với Pháp và mở rộng bang giao.
Trong thời gian phái bộ Phan Thanh Giản ở Pháp về Sài Gòn chờ tàu để đi Huế (từ ngày 18 đến 24 tháng 3 năm 1864), ông đã đến tiếp xúc với các chánh phó sứ để thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau đó, ông viết “Lục lợi từ” (còn có tên “Dụ tài tế cấp bẩm từ”, tháng 6 năm 1864) rồi gửi lên Triều đình, nhưng sau đó cũng không được phúc đáp.
Trong quãng thời gian đó, năm 1862-1864, bằng sự hiểu biết của mình, ông đã thiết kế và chỉ đạo việc xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn (nay ở số 4 đường Tôn Đức Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có giá trị bền vững cho đến tận ngày nay.
Thành công ấy đã làm cho tiếng tăm Nguyễn Trường Tộ lan rộng. Khoảng năm 1864, ông được người Anh mời sang dự một hội nghị khoa học ở Anh, nhưng chưa đi thì đã bị họ Phạm ngăn cản.
Khoảng cuối năm 1864 cho đến đầu năm 1865, Nguyễn Trường Tộ đã gửi liên tiếp một số văn bản gửi lên vua và triều đình. Ông nói rằng : ” Những người phương Tây nếu được đối đãi tử tế cũng sẽ đối đãi tử tế với mình, còn nếu không họ sẽ chiếm làm thuộc địa giống như các nước ở châu Phi”, nhưng văn bản ông gửi bị họ Phạm ngăn cản. Điều này nhen nhóm cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn ba văn bản gởi cho ông Thành, thì có thể là các bài: “Góp ý về việc mua và đóng thuyền máy” (cuối 1864), “Góp ý về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy” (tháng 2 năm 1865) và “Khai hoang từ” (tháng 2, 1866).
Sau đó, Nguyễn Trường Tộ được triệu ra Huế để giải quyết vụ tàu London. Về vụ việc này, sách Đại Nam thực lục kể đại ý như sau: “Trước đây, Hoàng Văn Xưởng đi Hương Cảng có đặt mua tàu London. Không ngờ bị Phô Na (chủ hãng tàu) lừa dối, tàu đã cũ nát, chưa đi tới nơi thì đã bị sóng gió làm hư hại. Sau khi sửa chữa ở Gia Định, họ đưa tàu đến cửa Thuận An (Huế) bắt phải mua. Nhưng sau khi đệ trình lên cách giải quyết, thì không được thi hành nên ông có lẽ chán nản, và xin về Nghệ An (ngày 10 tháng 4 năm 1866). Trong bức thư gửi Trần Tiễn Thành (viết từ Nghệ An đề ngày 15 tháng 6 năm 1866), thì tâm trạng của ông lúc bấy giờ khá u uất. Một phần vì ông nóng lòng việc canh tân đất nước, một phần vì thấy vua và một số quan lại bảo thủ hãy còn nghi kỵ mình…
Mặc dù vậy, Nguyễn Trường Tộ vẫn không nản chí. Về tới Nghệ An, việc đầu tiên ông làm là viết thư cho Triều đình để báo tin về việc Giám mục Gauthier nhận lời đi Pháp để mua các thứ cần thiết về mở trường kỹ thuật ở Huế. Sau đó, ông được lệnh đi cùng Giám mục Gauthier ra Huế để chuẩn bị đi Pháp. Khi ấy là giữa tháng 8 năm 1866.
Trong khoảng 3 tháng ở quê nhà, ông giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào kênh Sắt ở Hưng Nguyên. Truyện “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” kể:
Năm Tự Đức 19, Bính Dần (1866), ngũ nguyệt (tháng 5), Bộ sai quan Tổng đốc Nghệ An là Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt…Người viết thư cậy ông Tộ đi khám xem hình đất, thế đất, chỉ lối cho mà đào… Kênh hoàn thành, ông Tộ có làm bài thơ mừng Kênh Sắt.
Ngày 17 tháng 8 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier và Linh mục Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức tiếp kiến ở nhà Tả Vu trong Tử Cấm thành (Huế), được hỏi han nhiều điều, và được nhà vua nghe theo.
Ngày 15 tháng 9 năm đó, phái đoàn Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ đi tàu của nhà vua vào Sài Gòn, và ở đó chờ tàu. Trong thời gian lưu lại, hai ông đã có những cuộc tiếp xúc với Đô đốc Lagrandière và Lãnh sự Tây Ban Nha để nắm tình hình theo yêu cầu của Triều đình. Sau đó, Nguyễn Trường Tộ đã có sáu bản báo cáo gởi về Huế. Qua các văn bản này, ông trình bày cho Triều đình thấy là có một khác nhau giữa ý đồ của Pháp soái (tức Đô đốc Lagrandière) ở Sài Gòn và chính sách của chính phủ ở Pháp. Pháp soái thì muốn bằng mọi cách thôn tính hoàn toàn sáu tỉnh Nam Kỳ và áp đặt trên phần đất còn lại của Việt Nam một hiệp ước bảo hộ; trong khi ấy ở chính quốc, thì có nhiều dư luận chống đối các cuộc phiêu lưu quân sự ở các vùng đất xa xôi.
Ngày 10 tháng 1 năm 1867, phái đoàn đáp tàu L’orne đi Pháp. Trong 8 tháng ở đây, họ đã mua sách vở, dụng cụ, máy móc…để lập trường học kỹ thuật ở Huế. Ngoài ra, Giám mục Gauthier cũng đã tới Bộ Ngoại giao Pháp, Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp để xin tài trợ cho các chương trình của mình; đồng thời tiếp xúc với một số thương gia và kỹ nghệ gia người Pháp. Ngày 25 tháng 11 năm 1867, phái đoàn trở về Việt Nam.
Theo Linh mục Trương Bá Cần (tác giả sách Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo), thì có lẽ Nguyễn Trường Tộ đã theo Giám mục Gauthier sang Rôma (Ý), rồi được vào chầu Giáo hoàng Piô IX nhân chuyến đi này.
Ngày 29 tháng 2 năm 1868, phái đoàn Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ về tới Huế. Cùng theo về còn có hai Linh mục, một giáo dân (bác sĩ Hemaiz5) và một người thợ máy (tất cả đều là người Pháp, và đều do Giám mục Gauthier vận động được). Sau khi xem xét các thứ mua về cho trường học và các thứ mà Bộ Hàng hải Pháp gửi tặng, vua Tự Đức cho phép Giám mục Sohier được xây trường học kỹ thuật trên mảnh đất đã đề nghị (nằm giữa nhà thờ Kim Long và Tòa Giám mục Huế). Theo tờ tấu của Viện Cơ mật đề ngày 4 tháng 3 năm 1868, thì sau đó các thành viên trong đoàn đều được nhà vua ban thưởng tiền và lụa…
Đi Pháp về, trong thời gian từ cuối tháng 2 cho tới cuối tháng 4 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ đã gởi cho Triều đình, ít nhất là 9 văn bản. Ngoài văn bản đầu tiên (sau khi về tới Huế), còn nói về việc mở trường và phát triển đất nước, hầu hết các văn bản khác đều xoay chung quanh vấn đề sứ bộ đi Pháp. Bởi Triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam Kỳ đã mất vào tay Pháp. Sau những cuộc thương thuyết không thành công giữa Trần Tiễn Thành và Đô đốc Lagrandière tại Sài Gòn cuối tháng 1 năm 1868, vua Tự Đức nhất định cử một phái bộ sang Pháp để điều đình với chính phủ Pháp. Đối với vấn đề quan trọng này, quan điểm trước sau như một của Nguyễn Trường Tộ là phải tự lực tự cường để lấy lại phần đất đã mất, chứ không thể van xin nài nỉ. Tuy nhiên, ông vẫn sẵn sàng đi theo sứ bộ và đã có những kiến nghị rất cụ thể cho chuyến đi.
Khoảng giữa tháng 3 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ được cấp phát ngựa và chi phí về Nghệ An thăm mẹ già trước lúc lên đường sang Pháp. Tuy nhiên, sau khi trở lại Huế, ông đổi ý, kiến nghị với Triều đình là không nên sai sứ bộ sang Pháp điều đình mà chỉ nên gởi sứ bộ vào Sài Gòn thương thuyết.
Việc đi Pháp vì thế phải đình hoãn không thời hạn. Ngày 18 tháng 4 năm 1868, Bộ Lễ lại cấp phép cho Nguyễn Trường Tộ trở về Nghệ An. Trước đó, ngày 7 tháng 4 năm 1868, Giám mục Gauthier cũng đã lên đường trở về Xã Đoài vì thấy việc mở trường kỹ thuật không được nói tới nữa.
Về lại Nghệ An, Nguyễn Trường Tộ bắt tay vào việc vận động dân vùng Xuân Mỹ (Nghệ An) thường xuyên bị úng lụt đến nơi ở mới [25], đồng thời xây cất Nhà Chung Xã Đoài. Trong những năm này, ông vẫn đều đặn gửi lên triều đình Huế các bản điều trần về thời sự.
Tháng 10 (âm lịch) năm Tự Đức thứ 23 (1870), Nguyễn Trường Tộ gửi thư lên Triều đình đề nghị lập lãnh sự ở Sài Gòn và sứ quán ở Pháp để nắm tình hình. Đầu tháng 11 năm đó, ông lại xin được vào Nam tổ chức đánh úp quân Pháp để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ, nhân lúc Pháp đang thua Phổ (Đức) và Cách mạng Pháp đang nổi dậy.
Ngày 28 tháng 12 năm 1870, trong bản tấu của Viện Cơ mật dâng lên vua Tự Đức có đoạn: “Bọn thần tuân phụng xét duyệt các khoản mật trần của Nguyễn Trường Tộ thấy y cũng có lòng với ta và chính lúc này là lúc có thể thừa cơ hội được. Ý kiến của bọn thần cũng đồng với các lý lẽ của thần Trần Tiễn Thành tâu xin. Nhưng xét vì đây là việc quân quốc trọng sự cần phải bàn thảo kín đáo kỹ lưỡng mới bảo đảm không nguy hiểm trở ngại sau này. Nay bọn thần chưa giáp mặt y bàn tính mà đã nội giao cho y qua các nước thám sát những việc cần phải làm, lỡ ra có chỗ nào chưa được chu đáo, sợ sẽ sinh trở ngại. Vậy xin cho Bộ Lễ lấy lý do phái đem người qua Tây học tập, khẩn tư cho tỉnh thần Nghệ An lập tức cấp ngựa, sức y lên kinh ngay để bọn thần ở Viện Cơ mật và Tòa Thương Bạc đối diện hỏi bọn y xem suy tính cơ nghi như thế nào cho được chu thỏa. Bọn thần sẽ suy nghĩ chín chắn đôi ba lần và phúc tâu đầy đủ. Vậy dám xin có lời tâu bày, đợi chỉ tuân hành.”
Đầu năm 1871, ông nhận được lệnh cấp tốc ra Huế với lý do “đưa học sinh đi Pháp”, nhưng kỳ thực là để bàn bạc với vua Tự Đức về phương lược quân sự và ngoại giao mà ông đã trình bày trong các văn bản gởi cho Triều đình cuối năm 1870. Nhưng Triều đình Huế bàn đi tính lại mà không đi đến được một quyết định nào: Sứ bộ không được cử đi các nước, kế hoạch đánh úp Pháp để thu hồi 6 tỉnh ở Nam Kỳ cũng không được thực hiện…
Sau mấy tháng ở Huế, có thể là vì không có việc gì để làm, hoặc có thể vì bệnh cũ tái phát, Nguyễn Trường Tộ đã xin phép trở về Xã Đoài (Nghệ An).
Qua đời
Vào giữa năm ấy, ông về lại Xã Đoài, và đến ngày 22 tháng 11 năm 1871 thì ông đột ngột từ trần. Lúc ấy, ông chỉ mới 41 tuổi.
Con ông là Nguyễn Trường Cửu, trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ chỉ nói ngắn gọn rằng: “Qua năm sau, Tự Đức 24 (1871), ngày 10 tháng 10, ông Tộ làm câu thơ rằng: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận / Tái hồi đầu thị bách niên cơ” (Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận / Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm) đoạn thì qua đời. Thọ 41 tuổi”.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 11 phường: Hiệp Tân, Hòa Thạnh, Phú Thạnh, Phú Thọ Hòa, Phú Trung, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Sơn Nhì, Tân Thành, Tân Thới Hòa, Tây Thạnh. Khách hàng thuộc khu vực Quận Tân Phú có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Phường Hiệp Tân | Đại Lý Gas Phường Phú Trung | Đại Lý Gas Phường Tân Thành |
Quận Tân Phú là một quận của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận Tân Phú hiện đang sở hữu cũng khá nhiều địa điểm tham quan như địa đạo Phú Thọ Hoà, đình Tân Thới…..và nhiều địa điểm khác.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận Tân Phú
- Dân số của quận Tân Phú tính đến 2011 là 419.227 người.
- Địa danh Tân Phú là tên ghép từ tên 2 xã Tân Sơn Nhì và Phú Thọ Hòa thuộc quận Tân Bình trước đây.
Vị trí địa lý của Quận Tân Phú
- Tân Phú là quận nội thành mới được thành lập vào năm 2003.
- Đông giáp quận Tân Bình, ranh giới là đường Trường Chinh và Âu Cơ.
- Tây giáp quận Bình Tân, ranh giới là đường Bình Long và kênh 19 tháng 5.
- Nam giáp các quận 6, quận 11.
- Bắc giáp quận 12, ranh giới là kênh Tham Lương.
Tổ chức hành chính tại Quận Tân Phú
- Quận Tân Phú với diện tích là16 km², dân số là 419.227 người được phân chia thành 11 phường: Hiệp Tân, Hòa Thạnh, Phú Thạnh, Phú Thọ Hòa, Phú Trung, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Sơn Nhì, Tân Thành, Tân Thới Hòa, Tây Thạnh.
- Trong đó, phường Hòa Thạnh là trung tâm của quận.
Tiềm năng kinh tế của Quận Tân Phú
- Năm 2007, giá trị sản xuất Công nghiệp toàn quận thực hiện 4.404,31 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 2006 tăng 25,58%. Doanh thu thương mại và Dịch vụ đạt 9.946,11 tỷ đồng, tăng 29,04% so cùng kỳ năm 2006. Ngoài ra, thuế công thương nghiệp là 210,4 tỷ đạt 91,48% kế hoạch tăng 31,17% so với cùng kỳ.
- Hiện nay quận đã hình thành đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại và nhiều siêu thị như Co.op Mart Thắng Lợi, Co.op Mart Vikamex, trung tâm thương mại Hồng Bảo Minh phường Phú Thạnh và đang triển khai xây dựng 5 chung cư cao tầng kết hợp với kinh doanh Thương mại, Dịch vụ dự kiến đưa vào sử dụng đầu năm 2008.
- Trên địa bàn quận có Khu công nghiệp Tân Bình, tại phường Tây Thạnh.
Tình hình xã hội Tại Quận Tân Phú
- Toàn quận có 52 trường, 02 trung tâm và 97 nhóm trẻ gia đình với 1.463 lớp, 58.623 học sinh các cấp học.
- Tỉ lệ huy động trẻ vào lớp 1 đạt 100% (kể cả tạm trú), số học sinh các cấp học đều tăng nhanh.
- Hệ thống trường lớp đa dạng theo hướng xã hội hóa, nhất là ở cấp mầm non; chất lượng đào tạo ngày càng tăng, 100% đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có trình độ đạt chuẩn và vượt chuẩn.
- Tuy nhiên, một vài chỉ tiêu còn đạt thấp như: tỉ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, tỉ lệ học sinh học bán trú và 2 buổi/ngày, trường đạt chuẩn quốc gia ở cấp tiểu học và trung học cơ sở.
Các cơ sở Y tế thuộc Quận Tân Phú
- Tính đến năm 2007, trên địa bàn quận có 02 bệnh viện (trong đó có 01 bệnh viện tư), 09 phòng khám đa khoa, 03 nhà hộ sinh và 614 cơ sở hành nghề y dược tư nhân khác.
- Đến tháng 12-2007 đã có 10/11 trung tâm y tế phường đạt chuẩn quốc gia phường xã, được thành phố công nhận.
- Trung tâm Y tế dự phòng của quận đã thực hiện trang bị các máy móc cần thiết cho công tác chống dịch bệnh, xây dựng đội cơ động phòng chống dịch gồm 6 thành viên sẵn sàng trong các hoạt động chống dịch, hóa chất chống dịch và đã tập huấn các phương án, kỹ thật xử lý dịch trong các trường hợp khẩn cấp và thường xuyên.
Quận Tân Phú với các giao thông quan trọng
- Theo quy hoạch, tuyến metro số 6 Bà Quẹo-Phú Lâm sẽ chạy dọc theo tuyến đường Lũy Bán Bích, nối vào tuyến Metro số 2 tại Depot Tham Lương. Bên cạnh hệ thống giao thông, hiện hạ tầng xã hội tại Tân Phú cũng đã phát triển khá mạnh, đáp ứng đầy đủ nhu cầu sinh hoạt với khu TTTM lớn như Aeone Mall, Co-opmart, BigC…các khu chợ truyền thống, hệ thống giáo dục với trường học các cấp…
- Quận Tân Phú – Điểm nóng mới của thị trường bất động sản phía Tây thành phố
- Sau hơn 10 năm phát triển, tới nay Tân Phú được biết đến là quận có tốc độ đô thị hóa rất mạnh, với hệ thống cơ sở hạ tầng khang trang, hiện đại, hình thành nên các khu dân cư sầm uất và kéo theo đó là hàng loạt các dự án nhà ở phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của khu vực. Theo thống kê, tới nay toàn quận Tân Phú có khoảng gần 30 dự án phát triển nhà ở với khoảng 20.000 căn hộ, trong đó hơn 4.000 căn đã được đưa vào sử dụng.
Lịch sử hình thành và phát triển của Quận Tân Phú
- Trước năm 2003, quận Tân Phú là phần đất phía Tây của quận Tân Bình. Quận được thành lập vào ngày 02-12-2003, theo Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05-11-2003 của Chính Phủ. Đến với Tân Phú, du khách có thể ghé thăm địa đạo Phú Thọ Hoà, đình Tân Thới… và nhiều địa điểm khác.
- Địa danh Tân Phú được hình thành cách đây hơn 50 năm, khi đó Tân Phú là một xã thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Xã Tân Phú được thành lập từ phần đất cắt ra của hai xã: Tân Sơn Nhì và Phú Thọ Hòa cùng quận. Quận Tân Bình khi đó gồm các xã: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Phú, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì, Vĩnh Lộc
- Sau năm 1975, quận Tân Bình giải thể, 2 xã Bình Hưng Hòa và Vĩnh Lộc được giao cho huyện Bình Chánh quản lý. Địa bàn 05 xã còn lại được chia thành 03 quận mới trực thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định trên cơ sở nâng cấp các xã cũ. Trong đó, quận Tân Sơn Nhì được thành lập trên cơ sở 3 xã: Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa và Tân Phú trước đây. Địa bàn quận Tân Sơn Nhì gần tương ứng với địa bàn quận Tân Phú ngày nay.
- Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai. Theo đó, tái lập quận Tân Bình trên cơ sở sáp nhập quận Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì. Địa bàn quận Tân Phú ngày nay khi đó là khu vực phía tây của quận Tân Bình.
- Ngày 05 tháng 11 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 130/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính quận Tân Bình để thành lập quận Tân Phú và các phường trực thuộc, điều chỉnh địa giới hành chính một số phường thuộc quận Tân Bình. Nội dung như sau:
- Thành lập quận Tân Phú trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường 16, 17, 18, 19, 20; 110,23 ha diện tích tự nhiên và 23.590 nhân khẩu của phường 14; 356,73 ha diện tích tự nhiên và 26.414 nhân khẩu của phường 15 thuộc quận Tân Bình. Quận Tân Phú có 1.606,98 ha diện tích tự nhiên và 310.876 nhân khẩu.
Thành lập các phường thuộc quận Tân Phú:
- Thành lập phường Tân Sơn Nhì trên cơ sở 102,63 ha diện tích tự nhiên và 22.418 nhân khẩu của phường 14; 2,63 ha diện tích tự nhiên và 464 nhân khẩu của phường 16; 7,56 ha diện tích tự nhiên và 2.430 nhân khẩu của phường 17. Phường Tân Sơn Nhì có 112,82 ha diện tích tự nhiên và 25.312 nhân khẩu.
- Thành lập phường Tây Thạnh trên cơ sở 356,73 ha diện tích tự nhiên và 26.414 nhân khẩu của phường 15.
- Thành lập phường Sơn Kỳ trên cơ sở 212 ha diện tích tự nhiên và 18.812 nhân khẩu của phường 16.
- Thành lập phường Tân Quý trên cơ sở 4,33 ha diện tích tự nhiên và 679 nhân khẩu của phường 14; 174,16 ha diện tích tự nhiên và 41.764 nhân khẩu của phường 16. Phường Tân Quý có 178,49 ha diện tích tự nhiên và 42.443 nhân khẩu.
- Thành lập phường Tân Thành trên cơ sở 3,27 ha diện tích tự nhiên và 493 nhân khẩu của phường 14; 1,27 ha diện tích tự nhiên và 328 nhân khẩu của phường 16; 94,95 ha diện tích tự nhiên và 28.994 nhân khẩu của phường 17. Phường Tân Thành có 99,49 ha diện tích tự nhiên và 29.815 nhân khẩu.
- Thành lập phường Phú Thọ Hòa trên cơ sở 123,22 ha diện tích tự nhiên và 31.461 nhân khẩu của phường 18.
- Thành lập phường Phú Thạnh trên cơ sở 114 ha diện tích tự nhiên và 28.847 nhân khẩu của phường 18.
- Thành lập phường Phú Trung trên cơ sở 89,65 ha diện tích tự nhiên và 38.397 nhân khẩu của phường 19.
- Thành lập phường Hoà Thạnh trên cơ sở 93,08 ha diện tích tự nhiên và 21.278 nhân khẩu của phường 19.
- Thành lập phường Hiệp Tân trên cơ sở 112,90 ha diện tích tự nhiên và 21.968 nhân khẩu của phường 20.
- Thành lập phường Tân Thới Hòa trên cơ sở 114,60 ha diện tích tự nhiên và 26.129 nhân khẩu của phường 20.
- Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thành lập quận Tân Phú và các phường trực thuộc, quận Tân Phú có 1.606,98 ha diện tích tự nhiên và 310.876 nhân khẩu, có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các phường: Tân Sơn Nhì, Tây Thạnh, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Thành, Phú Thọ Hòa, Phú Thạnh, Phú Trung, Hòa Thạnh, Hiệp Tân, Tân Thới Hòa.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận Tân Phú
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 11 phường: Hiệp Tân, Hòa Thạnh, Phú Thạnh, Phú Thọ Hòa, Phú Trung, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Sơn Nhì, Tân Thành, Tân Thới Hòa, Tây Thạnh. Khách hàng thuộc khu vực Quận Tân Phú có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Âu Cơ | Lê Cao Lãng | Nguyễn Trường Tộ |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Trường Tộ Quận Tân Phú
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm